Bộ Tư Lệnh tiền phương Quân Đoàn I/Quân Khu I tại mặt trận Trị Thiên 1972

Vương Hồng Anh

Trong những ngày cuối của tháng 4 và đầu tháng 5 năm 1972, tình hình chiến sự tại Quảng Trị trở nên nguy kịch. Ở hai phía tây và tây nam Huế, áp lực của quân đội Bắc Việt gia tăng sau khi Tiểu Đoàn 2/54 thuộc Sư Đoàn 1 Bộ Binh (BB) triệt thoái khỏi căn cứ Bastongne, và Tiểu Đoàn 1 của trung đoàn này rút khỏi căn cứ Checkmate ở cao điểm 342. Ngày 2 tháng 5 năm 1972, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng tiếp nhận quyền chỉ huy Quân Đoàn 1 từ trung tướng Hoàng Xuân Lãm. Sau đó ông đã gấp rút tái tổ chức mọi cơ cấu chỉ huy và tham mưu.

Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Quân Đoàn 1/Quân Khu 1 được thành lập tại Huế và được điều hành bởi các sĩ quan thâm niên giàu kinh nghiệm chiến trường và công tác tham mưu. Cũng nên ghi nhận rằng trong những ngày đầu của tháng 5 năm 1972, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã điều động một số tướng lãnh, sĩ quan cao cấp đảm trách các chức vụ trọng yếu tại các mặt trận Trị Thiên, Nam Ngãi và Cao Nguyên.

https://i0.wp.com/tqlcvn.org/images/Doson-tuongNQT-tuongBTL-72.jpg

Tại Quân Khu 1, Trung Tướng Lâm Quang Thi, nguyên chỉ huy trưởng Trường Võ bị Quốc Gia Đà Lạt, được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Phó Quân Đoàn 1 (từ tháng 5 đến tháng 9 năm 1972, tướng Thi được tướng Ngô Quang Trưởng giao nhiệm vụ coi chiến trường Quảng Nam-Quảng Ngãi, và sau khi lực lượng VNCH tái chiếm Quảng Trị, ông Thi được tướng Trưởng giao chức chỉ huy Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Quân Đoàn 1 với bản doanh đặt tại Mang Cá, Huế).

Chuẩn Tướng Nguyễn Duy Hinh, nguyên tư lệnh phó Quân Khu 4, được điều động ra Huế giữ chức Tham Mưu Trưởng Hành Quân Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Quân Đoàn 1/Quân Khu 1 (hơn một tháng sau, tướng Hinh được đề cử giữ chức Tư Lệnh Sư Đoàn 3 BB và được thăng thiếu tướng vào năm 1973).

Sau khi nhận chức tư lệnh Quân Đoàn 1/Quân Khu 1, trong hai ngày sau đó tướng Trưởng đã đến tận các đơn vị đang phòng thủ tại các vị trí trọng yếu từ bờ Nam sông Mỹ Chánh đến tây Nam Thừa Thiên để thị sát chiến trường và kiểm tra tại chỗ tình hình của các đơn vị.

Khi kiểm tra lại khả năng tham chiến của các đại đơn vị trực thuộc và tăng phái, ông đã nhận được báo cáo như sau: Sư Đoàn 1 BB còn lại 2 trung đoàn nguyên vẹn là Trung Đoàn 1 và Trung Đoàn 3 BB. Còn Trung Đoàn 54 BB đã bị tổn thất gần 40%. Sư Đoàn 3 BB lúc đó cũng bị thiệt hại nhiều tại Quảng Trị nên cần một thời gian để tái chỉnh trang và tái huấn luyện. Lực lượng thiết giáp và pháo binh tăng phái cho Sư Đoàn 3 BB cũng bị thiệt hại ở mức độ cần phải tái trang bị gần 100%.

KẾ HOẠCH PHÒNG THỦ HUẾ VÀ CHƯƠNG TRÌNH TÁI CHỈNH TRANG CÁC ĐƠN VỊ

Sau khi Quảng Trị thất thủ, áp lực của Bắc Việt đã chuyển hướng vào Huế, một mục tiêu trọng điểm mà Bắc Việt cố nhắm đánh chiếm. Ngày 4 tháng 5 năm 1972, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng khởi động một kế hoạch tổng quát cho công cuộc phòng thủ bảo vệ cố đô Huế. Kế hoạch này bao gồm Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) với 3 lữ đoàn nhận lãnh trách nhiệm vùng bắc và tây bắc Thừa Thiên, với tuyến đầu là bờ sông Mỹ Chánh, gần ranh giới hai tỉnh Quảng Trị-Thừa Thiên cách Huế khoảng 30 km đường chim bay.

tqlc-trong-cuoc-hanh-quan-tai-chiem-quang-tri-nam-1972

Nhiệm vụ của lực lượng TQLC là ngăn chận tất cả các nỗ lực xâm nhập của các đơn vị Bắc Việt vào Huế. Sư Đoàn 1 BB nhận trách nhiệm vùng tây và tây nam Huế, phòng thủ và ngăn chận hướng xâm nhập của đối phương từ thung lũng A-Shau (An Hậu). Ngoài các nhiệm vụ chính yếu, cả hai sư đoàn được toàn quyền mở các cuộc hành quân tấn công giới hạn để triệt hạ các đơn vị Bắc Việt hoạt động trong vùng trách nhiệm.

Trong sự liên kết với các nỗ lực để phòng thủ vòng đai Huế, một chương trình khẩn cấp được tiến hành để kịp thời tái trang bị và huấn luyện cho những đơn vị đã bị tổn thất nặng hoặc bị tan rã trong tháng 4 năm 1972. Bộ Tổng Tham Mưu chưa kịp có một kế hoạch dự trù nào để tái trang bị những đơn vị này để trở thành thiện chiến như trước khi trận chiến xảy ra. Trong phạm vi Quân Khu 1, đây là trách vụ ưu tiên mà Bộ Tư lệnh Quân Đoàn 1 đã nổ lực thực hiện để kịp thời có cường lực vượt qua các thử thách để tái chiếm những vùng bị Bắc Việt tạm chiếm.

Trong cuộc chiến 32 ngày tại Quảng Trị, mức tổn thất phía Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) rất cao. Nhiều đơn vị phải xây dựng lại từ đầu như Lữ Đoàn 1 Kỵ Binh đã phải bỏ lại chiến trường 43 chiến xa M-48, 66 chiến xa M-41 và 103 thiết vận xa 113, phần lớn do khô cạn nhiên liệu. Về nhân mạng có 1,171 binh sĩ tử trận, thương vong, mất tích. Về pháo binh tổng cộng có 140 khẩu pháo đã được phá hủy hay bõ lại ở phía bắc bờ sông Thạch Hãn hoặc tại các căn cứ khi triệt thoái.

Sư Đoàn 3 BB chỉ còn lại bộ tham mưu và những thành phần còn lại của Trung Đoàn 2 và 57 BB với tổng số quân còn lại khoảng 2,700 người. Như vậy mức thiệt hại là đến 75%. Ba liên đoàn Biệt Động Quân (BĐQ) tham chiến cũng bị thiệt hại nặng, bị mất trên 50% cường lực tác chiến.

Các nỗ lực tái trang bị được tiến hành liên tục và hữu hiệu nhờ vào khả năng cung ứng và yểm trợ của các đơn vị tiếp vận qua sự điều động của Tổng Cục Tiếp Vận và các phản ứng nhanh chóng và rất hiệu quả của hệ thống tiếp vận Hoa Kỳ dưới sự giám sát của Bộ Tư Lệnh Yểm Trợ Quân Sự Hoa Kỳ tại Việt Nam (tức cơ quan MACV).

Những chiến cụ khẩn thiết cho nhu cầu chiến trường đã được bổ sung kịp thời như đại bác 105-ly, thiết vận xa, quân xa, vũ khí cộng đồng và cá nhân, mặt nạ phòng hơi độc, ngòi nổ, mình định hướng. Tất cả các quân khí này được vận chuyển cấp tốc đến Đà Nẵng bằng các vận tải cơ khổng lồ hay bằng các hải vận hạm. Nhờ có sự yểm trợ kịp thời và đầy đủ, trong những tháng nghiêm trọng sau đó, không có một đơn vị chiến đấu nào thiếu thốn đạn dược, đặc biệt là các tiểu đoàn pháo binh 105 và 155-ly.

Về thời gian, các chương trình đã được rút ngắn. Một chương trình cấp tốc hai tuần lễ huấn luyện bổ túc đã được thực hiện cho các đơn vị do các toán huấn luyện lưu động Việt-Mỹ phụ trách. Đặc biệt trong chương trình này có phần huấn luyện quân sĩ sử dụng các vũ khí chống chiến xa địch, đặc biệt là loại hỏa tiễn có giây điều khiển TOW (Tube-launched, Optical-tracked, Wire-guided), lần đầu tiên được đưa vào chiến trường Việt Nam ngày 21 tháng 5 năm 1972. Khởi đầu các lớp huấn luyện này do Lữ Đoàn 196 BB Hoa Kỳ đảm trách. Về sau khi lữ đoàn này triệt thoái khỏi Đà Nẵng, các chương trình huấn luyện được dời về Trung Tâm Huấn luyện Hòa Cầm ở vùng ngoại ô phía tây Đà Nẵng.

Các đơn vị như Thiết Đoàn 20 Kỵ Binh, Trung Đoàn 56 BB và các tiểu đoàn Địa Phương Quân (ĐPQ) bắt buộc phải trải qua một chương trình đầy đủ thời lượng để tái trang bị và huấn luyện. Các đơn vị được tập trung tại Trung Tâm Huấn Luyện Đống Đa ở Phú Bài và tại trại Văn Thánh (doanh trại cũ thuộc trung tâm huấn luyện của Sư Đoàn 1 BB). Riêng Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 3 BB tạm thời đóng tại một khu vực ở Phú Bài do Quân đội Hoa Kỳ để lại.

SƯ ĐOÀN 3 BỘ BINH TÁI CHỈNH TRANG

Cũng cần ghi nhận rằng sau khi Sư Đoàn 3 triệt thoái khỏi Quảng Trị, Tổng Thống Thiệu cũng muốn xóa đi khỏi quân lực danh hiệu của sư đoàn này và tái tổ chức sư đoàn này thành Sư Đoàn 27 BB, vì tổng thống cho rằng con số 3 xui xẻo, cần phải xóa đi. Trung Tướng Ngô Quang Trưởng cho biết ông đã nhận được nhiều cú điện thoại của Trung Tướng Nguyễn Văn Mạnh, Tham Mưu Trưởng Liên Quân, thông báo ý định của Tổng Thống Thiệu về việc xóa danh hiệu Sư Đoàn 3. Ông đã phải tranh đấu và giải trình rất nhiều lần để giữ lại danh hiệu của sư đoàn này. Cuối cùng tổng thống đồng ý. Vào lúc này, Chuẩn Tướng Vũ Văn Giai đã bị tạm giam vào ngày 5 tháng 5 năm 1972. Tư lệnh phó sư đoàn là Đại Tá Ngô Văn Chung đã được đề cử xử lý thường vụ chức tư lệnh sư đoàn.

Ghi nhận về những khó khăn mà Chuẩn Tướng Vũ Văn Giai đã gặp phải trong khi điều động các đơn vị tăng phái, tướng Trưởng cho biết như sau: Vị tư lệnh tiền nhiệm Quân Đoàn 1 và Quân Khu 1 là Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm đã gây khó khăn cho tướng Giai trong kế hoạch điều quân khi tướng Lãm “tự mình thường xuyên ra chỉ thị bằng cách điện thoại hay gọi qua máy truyền tin thẳng với trung đoàn trưởng, lữ đoàn trưởng, nhất là với vị chỉ huy Lữ Đoàn 1 Kỵ Binh, người cùng binh chủng với tướng Lãm.”

Tướng Giai chỉ biết được nội dung các chỉ thị của tướng Lãm, sau khi các chỉ thị này đã được các đơn vị trưởng (nhận lệnh của tướng Lãm) thi hành xong xuôi. Tướng Trưởng nhận xét rằng việc làm của tướng Lãm đã làm tổn thương đến quyền chỉ huy của tướng Giai.

Chính sự bất tin của vị Tư Lệnh Quân Đoàn 1 đối với tướng Giai và sự bất tuân lệnh tướng Giai của các đơn vị trưởng tăng phái (do tướng Lãm đã ra lệnh trực tiếp cho các vị này), đã đưa đến kết quả cuối cùng của việc sụp đổ toàn diện hệ thống chỉ huy và kiểm soát tại chiến trường giới tuyến vào cuối tháng 4 năm 1972.

Vương Hồng Anh

vietbao.com

Leave a comment